March 11, 2007

Trăm Con Trăm Trứng Trăm Con

Đấy là “Huyền Sử Bách Việt” cuả quá khứ, cuả những thế kỷ trước.

Cho đến hôm nay, dân tộc Bách Việt ( Hundred Yue ) trên vùng đất Hoa Nam ( phía nam sông Trường Giang - Yangzhi river ) không còn là huyền sử cuả thời xa xăm, cuả trận “Lụt Hồng Thủy” thời kỳ thứ III vào khoảng 15,000 – 10,000 năm về trước nửa nhờ sự tiến bộ cuả khoa học trong những ngành như: Nhân Chủng Học, Di Truyền Học, Khảo Cổ Học và nhất là phương thức C14, dùng đo lường chất Carbon trên những cổ vật tìm thấy được.

Những môn học nầy đã chứng minh được một cách rõ ràng và mạch lạc về nguồn gốc cuả dân tộc “Bách Việt - Hungdred Yue” chính là chủ nhân ông cuả vùng bình nguyên sông Hồng, sông Mã đã phải di cư ngược lên mạng bắc để định cư tại hai bên bờ sông Trường Giang – Yangzhi River và Hồ Động Đình – Dongting Hu, do cơn hồng thủy thời kỳ thứ III vào khoảng 15,000 năm về trước.

Có nghiã là toàn vùng Hoa Nam là lãnh thổ cuả dân tộc “Bách Việt”.

Thế nhưng vì thuộc vùng văn hoá lúa nước cuả vua Thần Nông chuyên định cư, định canh cho nên đã bị văn hoá Du Mục, hung tàn cuả tộc Hán xâm lăng, chiếm cứ.

Điều nầy không có nghiã là tộc “Bách Việt” đã tuyệt chủng vì cho đến hôm nay vẫn còn hậu duệ chính thống là tộc “Lạc Việt” mà dân tộc Việt Nam là một tiêu biểu chính thống đã hiên ngang đối đầu với Hán tộc trên 5,000 năm nay để sống còn.

Nghiã là văn hoá “Bách Việt” đã có trước văn hoá “Hán Tộc” có thể là 5,000 năm, hoặc hơn chứ không phải bị giới hạn trong 4,000 năm như chúng ta đã biết từ trước.

Chỉ vì năm chử “Chính Thống Chủ Nhân Ông” của tộc “Lạc Việt” mà “Du Mục Hán tộc” phương bắc đã không ngần ngại bằng trăm phương ngàn kế trãi suốt trên 5,000 năm để tìm mọi cách lấn chiếm và đồng hoá dân “Lạc Việt”.

Những trang lịch sử oai hùng chống quân xâm lược phương bắc của Việt Nam đã nói lên điều đó. Và Hán sử cũng đã nói lên những điều tàn ác đó, do chính Hán tộc đã, đang và sẽ làm.

Một thực trạng không thể chối cải.

Cho mải đến hôm nay, qua điều lệnh hành quân cuả Giang trạch Dân – Jiang Zeming dưới đây đã xác định một cách rõ ràng dã tâm cuả “Du Mục Hán tộc”

Dưới đây là tài liệu chính Jiang Zemin ( Giang trạch Dân ) đã ra lệnh cho quân TC tàn sát những người dân cuả bất cứ nước nào mà đoàn quân TC đi qua. Điều nầy nói lên sự tàn ác cuả quân đội cộng sản không phân biệt là Nga Cộng, Trung Cộng, Miên Cộng hay Việt Cộng.

Những điều lệnh cuả Giang trạch Dân dưới đây đã vô tình là bản án kể tội ác cuả CSVN trong trận chiến tranh Trung - Việt 1979-1991 vì chính CSVN đã đưa sang Cambodge ước lượng 10 sư đoàn thiện chiến và chỉ để lại mặt trận miền Bắc biên giới những dân quân không thiện chiến. Việt Cộng đã áp dụng chiến thuật du kích lỗi thời tạo cơ hội cho quân TC áp dụng chiến thuật biển người phối hợp với hỏa lực mạnh để tàn sát dân quân Việt Nam không gớm tay.
Đó là lý do tại sao mà CSVN không dám tuyên bố một cách chính xác số lượng tổn thất trong trận chiến, bao gồm cả dân quân, đàn bà và trẽ em.

------------------------------------------------------------------------------------
Jiang Zemin’s Points of instigating folk’s war emotion before war
World Chinese Net
9/25/2005 6:29:00 AM

Những điều lệnh cuả Giang trạch Dân trước cuộc chiến.

------Extracted from surveying conclusion by Sina.com*01) - On the battlefield there is only the distinction between our side and the enemy side; there is no distinction based on old, young, women, and children.
01 - Trong mọi trận địa chỉ có sự khác biệt là quân ta và quân địch mà không có sự khác biệt về già, trẽ, đàn bà hay trẽ con.

*02) - If they are enemies, you must kill and kill them all, no matter who they are, the old, the young, women, children.

02 - Nếu là quân địch, phải giết hết bọn chúng, không cần biết bọn chúng là người già, thanh niên, hay đàn bà, con nít.
*03) - When the civilians of an enemy country are mobilized, they become an army; they become enemies. I suggest that our army should not let a single civilian of the enemy country survive.
03 – Khi người dân cuả quốc gia địch đã được sử dụng như là một người lính, họ trở thành kẻ thù cuả ta và ta phải tiêu diệt chúng không chừa một tên sống còn.

*04) - War is all about destroying the enemy country. Since women and children are strategic resources of the enemy country, they should be eliminated to forestall future troubles.

04 - Chiến tranh là tàn sát, hủy hoại. Vì đàn bà và trẽ con là nguồn gốc phát triển quân đội cuả kẽ địch ta phải tiêu diệt chúng để tránh hậu hoạn về sau.
*05) - Both the people and materials of the rival countries at war are resources of war. Killing all, burning up all, and taking all is not to blame.

05 - Cả người lẫn của trong quốc gia địch là nguồn gốc cuả chiến tranh. Phải hủy hoại, tiêu diệt hết, nếu những gì có thể lấy được cứ lấy.

*06) - Of course we should kill them. If they were kept as prisoners of war, they would consume our military materials and it’s hard to tell if there is any spy among them. In a contemporary war, the objective of the war is not labor forces; it is material resources.
06 – Dĩ nhiên chúng ta phải tàn sát họ. Nếu chúng ta giử họ làm tù binh, họ sẽ tiêu hao những thực phẩm cuả ta và rất khó mà biết nếu có những gián điệp bên trong những người tù binh ấy. Trong thời gian chiến tranh tù binh chiến tranh không phải là lực lượng lao động mà là nguồn tài nguyên để khai thác.

*07) - The best way to treat enemy nationalities is to kill them once and for ever. This way we can obviate completely the latent problem of their future retaliations.
07 – Cách tốt nhất để đối phó với kẻ thù là tàn sát hết để tránh hậu hoạn về sau.

*08) - In a war one is first of all responsibility for one’s own safety and the safety of his partners. Everything that can move is a potential threat and therefore a valid target for shooting. Only the dead poses no threat.

08 – Trong cuộc chiến trách nhiệm của người chiến binh là mạng sống cuả chính họ và đồng đội của họ. Tất cả mọi sinh vật đều nguy hiểm cho quân ta, đó chính là mục tiêu phải bắn, chỉ có những tử thi mới không có nguy hiểm cho quân ta mà thôi.
*09) - No matter who were involved, women, children, or prisoners of war, they were all enemies. This is war. If you want to survive, then you should remember this: “only the dead poses no threat.” Therefore, never ever cherish any woman-like benevolence!!
09 – Không cần biết họ là ai: đàn bà, trẽ con, tù binh họ điều là kẻ thù cuả ta. Đây là thời chiến. Nếu anh muốn sống phải nhớ điều nầy: chỉ có xác chết mới không nguy hiểm, đừng bao giờ yếu lòng như đàn bà.

*10) - As long as he is from the enemy country, a woman, child, or prisoner of war may pick up a weapon and shoot at you, so why not get rid of him when he is not capable of posing any threat to you? I wouldn’t wait for him to kill me. Even without an order from the superior, I would kill them all. Doing this could also save food and water.

10 – Khi mà họ từ quốc gia địch, dù là đàn bà, trẽ con, tù binh họ có thể dùng vũ khí để giết anh. Thế thì tại sao không giết họ trước khi họ giết anh. Tôi không thể đợi cho họ giết tôi. Cho dù không có lệnh của bề trên, tôi cũng sẽ giết hết. Làm điều nầy có thể tiết kiệm được thực phẩm và nước uống.
*11) - You have to be extremely cruel and merciless if you want to accomplish something big. As a superior, I would order the soldiers to shoot at women, children or prisoners of war, because under the cruel circumstances of a war, everything that can move will pose a threat to my subordinates.

11 – Các anh phải thật tàn ác và không nhân đạo nếu muốn hoàn thành việc lớn. Là vị chỉ huy cuả các anh, tôi ra lệnh cho các anh tàn sát ngay cả đàn bà và trẽ con hay tù binh, vì trong thời chiến bất cứ vật vì còn sống đều nguy hiểm cho quân ta.

*12) - Be merciless towards the enemy. You have to eradicate them, men and women, the old and the young, with no exception.
12 – Không thể có lòng nhân với quân thù. Phải nhỗ cỏ tận gốc rễ: đàn ông, đàn bà, già hay trẽ không có ngọai lệ.

*13) - In a war the only distinction is our people and enemy forces. There exists no distinction between men and women. If any poses any potential threat to us, then we’d kill one thousand innocent people rather than letting a single dangerous element go away. Otherwise, we will end up as unlucky ones.
13 – Trong thời chiến chỉ có sự khác biệt là người cuả ta và cuả địch. Không có sự khác biệt giửa đàn ông hay đàn bà. Nếu thấy nguy hiểm thà chúng ta giết lầm hằng ngàn người còn hơn tha lầm một mạng để rồi ta trỡ thành nạn nhân.

*14) - In a war, any enemy force should be subject to elimination. Do you want them to press charges against you after the war??

14 – Trong thời chiến, mọi lực lượng kẽ thù điều phải bị tiêu diệt, nếu chúng ta không muốn bị kết án tội phạm chiến tranh sau nầy.
*15) - To exchange the lives of our own soldiers for the safety of the ordinary civilians of the enemy country is reflective of not only obsolete Confucian thinking but also irresponsibility toward self and fellow soldiers.

15 – Trao đổi mạng sống những thường dân cuả kẽ địch, để cứu quân nhân cuả ta là điều tâm đắc của Khổng Phu Tử mà còn là trách nhiệm cuả ta đối với quân ta.
*16) - A battlefield is a God-forgotten place. It does not need any philanthropist.
16 - Chiến trận là địa ngục, không cần lòng nhân.

*17) - A serviceman is first of all a soldier who kills and secondly a human being.
17 – Quân nhân là kẽ sát nhân và cũng là con người.

*18) - War is a hell of blood and fire. It is not a religion. You’ve got to kill, kill, kill!!!
18 - Chiến tranh là địa ngục máu lữa. Nó không phải là tôn giáo. Phải giết, giết, giết!!!

*19) - A soldier’s obligation is to kill. Failing to kill is his failure as a soldier.
19 - Nhiệm vụ cuả một quân nhân là giết người, quân nhân không giết người là không làm tròn nhiệm vụ một quân nhân.

*20) - Anyone who is lenient should to shot, because the civilians he saves will kill his comrades-in-arms!

20 - Bất cứ quân nhân nào quá nhân đạo phải bị xữ tử, vì chính người dân anh ta cứu sẽ giết chết đồng đội anh ta.

*21) - As long as he is not from Mainland China, it does not matter what nationality, what skin color, it does not matter if it is an old man, a child, or a woman, shoot him.
21 - Một khi họ không xuất xứ từ chủng tộc tàu, không cần biết họ xuất xứ từ quốc gia nào, từ màu da cuả họ, cho dù là người già, con nít, đàn bà. Giết họ.

*22) - Don’t just consider the Japanese. Even if they come from other countries, we should kill them all without any exception. Killing is a serviceman’s obligation.

22 - Đừng xem họ là người Nhật, cho dù họ đến từ bất cứ quốc gia nào, chúng ta phải giết hết không có ngoại lệ. Giết người là nhiệm vụ cuả một quân nhân.
*23) - Any race that is antagonistic to the Chinese people should be erased.
23 - Bất cứ chủng tộc nào chống đối với người tàu đều phải bị tiêu diệt.

*24) - The Chinese people is the greatest people in the world. We should eliminate all other inferior peoples.

24 - Chủng tộc tàu là loại người thượng đẳng trên thế giới. Chúng ta nên loại bỏ những chủng tộc thấp hèn hơn.
*25) - The Japanese, western devils, Chinese traitors, turncoats, whether they are women or children, the old or the young, I would shoot even without being ordered to.

25 – Người Nhật, người tây phương ác qủi, những người tàu phản bội, cho dù họ là đàn bà, con nít, người già hay trẽ. Tôi sẽ giết họ không cần phải đợi lệnh.
*26) - The Japanese, Vietnamese, Indians, Indonesians, Philippines, Malaysians and Americans, I would kill as many of them as I could, with or without orders. As for other countries and races, I would have to think.

26 - Người Nhật, Việt Nam, Ấn Độ, Nam Dương, Phi, Mã Lai và ngay cả người Mỹ, tôi sẽ giết hết họ nếu tôi có thể, dù có lệnh hay không có lệnh. Đối với chủng tộc khác tôi phải xem lại.
*27) - A fair end justifies means, especially when it involves the Japanese, Vietnamese and Indonesians. I would kill everyone of them.

27 - Một xét đoán cuối cùng, đặc biệt với người Nhật, Việt Nam, Nam Dương. Tôi muốn giết từng người một cuả họ.
*28) - If it were the Japanese, I would kill all of them. I would erase them from the earth.
28 - Nếu là người Nhật tôi sẽ giết tất cả, tôi sẽ loại bỏ họ khỏi trái đất nầy.

*29) - If it were the Japanese, even if the higher authority forbade shooting, I would slaughter them, from babies to old men, everybody has to die.

29 - Nếu là người Nhật, cho dù cấp trên có cấm đoán, tôi cũng sẽ phanh thây họ, từ trẻ con cho tới người già, mọi người đều phải chết.
*30) - If it were the Japanese, I would kill, even pregnant women, needless to say women, children and prisoners of war. I’d kill them all!

30 - Nếu là người Nhật, tôi sẽ giết ngay cả đàn bà có thai, không cần phải kể là đàn bà, trẻ con, tù binh. Tôi sẽ giết hết.
*31) - If it were Japanese women and children, rape them first, then kill them.

31 - Nếu là đàn bà Nhật và trẻ con Nhật, hãm họ trước đoạn giết họ sau.
*32) - It were the Japanese, open the bellies of the old people, peel the skin of the men, cut the hands and feet of the children, rape and kill the women by cutting piece by piece.

32 - Nếu là người Nhật, mỗ bụng người già ra, lột da họ, chặt chân tay cuả trẻ con, hãm và băm đàn bà ra từng mãnh.
*33) - I would round up Japanese women and give them to the soldiers to have fun with. When the soldiers have enough of them, then the soldiers can kill all.
of them.
33 – Tôi sẽ bắt hết đàn bà Nhật và chuyền tay cho các quân nhân giải trí. Sau khi họ đã hưởng thụ thõa thê, chán chường đoạn các quân nhân nầy sẽ giết hết tất cả.
(Contribution by Information Department of China shadow Government)http://www.world-chinese.com/Eng/1363.asp

Những điều lệnh trên cuả Giang trạch Dân là một thực trạng mà dân tộc Việt Nam sẽ mãi mãi phải cảnh giác và phải sẵn sàng đương đầu trong bất cứ lúc nào, thời điểm nào.

Trong năm 1999 quyển sách “Unrestricted Warfare-Chiến Tranh Không Giới Hạn” do 2 đại tá TC viết đã làm chấn động những lãnh đạo cấp cao của cả thế giới. Điều đặc biệt là trong quyển sách nầy đã có nói đến vấn đề 911 và cho dù việc làm ấy do nhóm khủng bố Trung Đông gây ra nhưng tất cả mọi kế hoạch lẫn huấn luyện đều do TC đứng bên sau giựt dây, điều động.

TC đã điều động và lập thành kế hoạch, củng cố và phát triễn mộng bá quyền thế giới cuả TC như thế nào?

Dưới đây là những chiến thuật xuất phát từ bộ binh thư cuả Tôn Tử “The Art of War”, tuy đã củ nhưng TC biết phối hợp với kỷ thuật khoa học hiện đại để đạt được những mục tiêu mong muốn.


Unrestricted Warfare identifies these forms as:

Chiến tranh không giới hạn gồm những dạng thức nầy.

1) Financial warfare ( in which a country is subjugated without a drop of blood being spilled) means entering and subverting banking and stock markets and manipulating the value of a targeted currency.

Chiến tranh tài chính, có nghiã là dùng tin tặc hay chuyên viên gián điệp vào những hệ thống ngân hàng hay cổ phiếu của đối thủ để hủy hoại, hoặc làm mất giá hệ thống tiền tệ của đối thủ. Dùng hệ thống tiền giả đánh tráo hay chuyển đến quốc gia địch.

2) Smuggling warfare means sabotaging a rival country’s economy by flooding its markets with illegal goods, and jeopardizing a local economy by flooding the market with pirated products.

Chiến tranh hàng lậu, nhầm phá hoại hệ thống kinh tế của quốc gia địch bằng cách tràn ngập hàng hoá rẽ, không giá trị hoặc hàng giả, hàng nháy.

3) Cultural warfare means influencing the cultural biases of a targeted country by imposing your own cultural view-points.

Chiến tranh văn hoá, dùng văn hoá cuả mình để dần dần thay thế văn hoá địch, hủy hoại đi nền văn hoá chính thống cuả quốc gia địch.

4) Drug warfare means flooding illicit drugs across national borders and breaking down the fabric of a society through their use.

Chiến tranh thuốc nghiện đưa sang nước địch những loại thuốc gây nghiện ngập, để phá hủy đi những thế hệ trẽ tương lai, phá hủy đi sức đề kháng cuả một dân tộc hoặc những chất độc dùng trong thực phẩm hay nông nghiệp.

5) Media and fabrication warfare means manipulating foreign media, either by compromising or intimidating journalists or getting access to another country’s airwaves and imposing your own national persectives.

Chiến tranh tuyên truyền, xuyên tạc qua hình thức báo chí, truyền hình, truyền thanh, rĩ tai.

6) Technological warfare (creating monopolies by setting standards independently) means gaining control of or having an edgein particular vital technologies that can be used in both peace and wartime.

Chiến tranh kỷ thuật áp dụng trên mọi lãnh vực trong thời bình cũng như trong thời chiến.
7) Resources warfare means gaining control of scare natural resources and being able to control or manipulate their access and market value.

Chiến tranh tài nguyên tìm cách lũng đoạn hoặc chiếm lấy những tài nguyên thiên nhiên cuả địch để là lợi cho chính mình.

8) Psychological warfare means imposing one’s national interest by dominating a rival nation’s perception of it own strengths and weaknesses.

Chiến tranh tâm lý cũng cố quyền lợi bằng cách làm áp lực hay gài vào những điều có lợi cho quốc gia mình bằng những phương thức biến sức mạnh cuả địch thành cuả mình và dùng nó đánh vào chổ yếu cuả địch.

9) Network warfare (venturing out in secret and concealing one’s identity in a type of warfare that is virtually impossible to guard against) means dominating or subverting transnational information systems.

Lấn chiếm thay đổi hoặc hủy hoại những hệ thống tin tức cuả thế giới.

10) International law warfare means joining international or multinational organizations in order to subvert their policies and the interpretation of legal rulings.

Có thể coi đây là một loại tình báo chiến lược thế giới, tham gia mọi tổ chức thế giới để có đủ thế đứng trong các tổ chức quốc tế và dùng quyền phủ quyết hay tiếng nói cuả mình để làm đão lộn tất cả những quy luật quốc tế có hại cho quyền lợi quốc gia địch làm lợi cho quyền lợi cuả quốc gia mình.

11) Environmental warfare means weakening or subjugating a rival nation by despoiling or altering its natural environment.

Một loại chiến tranh thời tiết làm thay đổi môi trường sống cuả dân chúng trên quốc gia đối thủ làm kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ngõ hầu triệt hạ sức đề kháng của quốc gia địch.

12) Economic aid warfare means controlling a targeted country through aid dependency.

Chiến tranh trợ cấp được áp dụng để làm lũng đoạn nền kinh tế khiến địch thủ phải lệ thuộc vào những quyết định có lợi cho quốc gia mình.


Sau cuộc chiến Việt-Trung 1979, TC đã tìm mọi cách để phát triển quân sự ngỏ hầu thực hiện mộng bành trướng của “Hán Tộc”.

TC phát triển quân sự bằng cách nào?

Với những loại vũ khí thông thường sẽ không thể nào đương đầu với những vũ khí hiện đại cuả thế giới văn minh tây phương, đặc biệt là vũ khí hiện đại cuả Mỹ.

Khối tây phương biết rất rõ những vũ khí nguy hiểm TC hiện đang có, ngoài những vũ khí qui ước, còn là vũ khí bẩn-biological weapons, hay vũ khí hóa học-chemical weapons, vũ khí chủng loại-genetically engirneered weapons, neutron-bombs, hay những phi đạn ánh sáng bắc đẩu-light of the North Star, vũ khí điện quang-laser….

Tuy nhiên để tiêu diệt 2.6 tỉ dân số, bao gồm khối đồng minh Âu, Á Châu và Hoa Kỳ trong khoảng khắc, TC phải có những loại vũ khí độc tôn chưa có một quốc gia nào có. Loại vũ khí nầy phải có tầm mức tiêu diệt khủng khiếp trong khoảng khắc, không để lại dấu vết cho bất cứ một quốc gia nào có thể truy nguyên ra thủ phạm mà vẫn còn nguyên những tài nguyên, cuả cải để TC có thể chiếm đoạt, tiếm dụng ngay sau cuộc chiến.

Như thế nó phải là những loại vũ khí đặc biệt, và nếu là đặc biệt, nó sẽ thuộc dạng thức nào?

Vào năm 2000 có một nhân vật cao cấp trong bộ chính trị TC đã đào thoát sang Hoa Kỳ. Đó là ông Zhang Hongbao, nhân vật đã sáng lập ra một lực lưọng bí mật có tên là “bóng đen cuả chính quyền TC-Department of China shadow Government”.
Ông nầy đã tiết lộ cho cả thế giới biết là TC đang thủ đắc 3 loại vũ khí nguy hiểm và hiện đại nhất thế giới hiện nay. Ba loại vũ khí gồm có:

Thứ nhất là trạm không gian siêu nguyên tử với kỷ thuật làm mất điện từ dưới bình diện rộng “space-based post-nuclear super weapon-large scale outer space power outage technology”.

Thứ hai là vũ khí nguyên tử siêu toàn cầu, tạo ra động đất và sóng thần “geological post-nuclear super weapons-man-made earthquakes and tsunamis”.

Và thứ ba là vũ khí siêu nhân lực áp dụng vào lãnh vực quân sự.

Liệu TC có thật sự thủ đắc những vũ khí nầy?
Hay chỉ là ngón đòn tâm lý để đàn áp tinh thần các lãnh tụ Á, Âu mua thời gian để lợi dụng khả năng mậu dịch cuả mình mà phát triễn quân đội, củng cố vị thế cai trị độc tôn cuả TC?

Với những chứng cứ diệt chủng mà TC (đã áp dụng vũ khí sinh hoá tại mặt trận Lạng Sơn) đã làm trong các mặt trận Lạng Sơn, Lào Cai trong cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cho thấy chiến thuật "Chiến Tranh Không Giới Hạn" cuả TC đã khởi động.

Liệu dân tộc Việt Nam có đủ tỉnh táo để tìm một sách lược đối phó hay cứ u mê dưới chủ nghiã cộng sản mà thái thú Hồ chí Minh đã tròng vào cổ dân tộc Việt Nam hơn 60 năm nay?!
mrt.